Đây là sự hiểu lầm SÂU SẮC của cả người tu Nam Tông lẫn người tu Thiền Tông vì sự hiểu lầm này chỉ nằm trên ngôn từ mà không thấy đúng bản chất.
Khi nói đến “Phật tánh, chân tâm” là Thiền Tông nói đến tánh “vô ngã” trong vạn pháp, cả pháp hữu vi (Luân hồi) lẫn vô vi (Niết bàn). Ai thấy và biết được tánh trống rỗng, không cốt lõi (vô ngã) của các pháp thì người đó thấy được tính bình đẳng của các pháp trong Luân hồi cũng như Niết bàn. Bằng cái thấy và biết này Lục Tổ Huệ Năng mới nói đâu ngờ tánh mình vốn đầy đủ từ xưa đến nay. Ngài Huyền Giác ngộ đạo trong Chứng Đạo Ca đã thốt lên “Chẳng trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân”. ” Vô minh thật tánh tức Phật tánh”. Đây là định nghĩa Phật tánh rõ ràng nhất của Thiền Tông. Vậy thật tánh của vô minh là gì đó là tánh vô ngã của Niết bàn cũng như của Luân hồi đều như nhau. Thực tại bao gồm 4 yếu tố là Sắc pháp, Tâm, Tâm Sở, Niết bàn thì 3 yếu tố đầu có đăc tính Khổ, Vô Thường, Vô Ngã, còn yếu tố cuối Niết bàn có đặc tính Vô ngã mà không có đặc tính Khổ và Vô thường”. Vậy khi ngài Huyền Giác nói THẬT TÁNH của vô minh thì cũng như THẬT TÁNH của Niết bàn là vô ngã hay còn gọi là Phật tánh, chân tâm trong Thiền Tông.
Từ ý nghĩa Phật tánh, chân tâm này ngài Lục Tổ Huệ năng đã khai triển và hoằng dương pháp môn Vô Niệm với câu nói cũng làm nhức đầu những Phật tử Nam Tông như có “Có niệm niệm thành tà. Chánh tà đều dẹp sạch. Nằm duõi hai chân ngủ.” Nền tảng của Phật giáo Nam Tông là chánh niệm và tỉnh giác. Bây giờ Thiền Tông nói vô niệm thì mới đúng còn chánh niệm thì vẫn là tà niệm như ngài Lục Tổ nói. Vậy phải làm sao ?.
Thực ra “vô niệm” của ngài Lục Tổ cũng ý chang một nghĩa như chánh niệm của Nam Tông. Vì sự thật thì chẳng thể có vô niệm. Khi nhãn thức bắt ánh sáng, nhĩ thức bắt âm thanh, tỷ thức bắt mùi, thiệt thức bắt vị, thân thức bắt xúc chạm thì đã có niệm (sự ghi nhận rồi) mà chẳng vô niệm được. Chính đây là điều mà các Phật tử Nam Tông không chấp nhận có vô niệm trên ngôn từ. Ngay Đức Phật cũng không đưa ra khái niệm vô niệm trong 5 bộ kinh Pali. Như vậy vô niệm của Lục Tổ chính là cách ghi nhận tánh vô ngã của các pháp trong Thiền tông. Đó chính là sự thấy và biết thuần khiết mà không bị ái, thủ, hữu dắt đi. Giống như Đức Phật dạy trong các thấy chỉ có cái thấy, trong cái nghe chỉ có cái nghe, trong cái xúc chạm chỉ có cái xúc chạm mà thôi là không tạo nghiệp, là giải thoát.
PG Nam Tông có thiền Tứ Niệm Xứ để hành giả bước từng bước từ 7 ngày đến 7 năm (theo kinh Tứ Niệm Xứ) đi đến giác ngộ giải thoát khỏi gánh nặng của Luân Hồi.
PG Thiền Tông thì tu tập để nhận lấy tánh vô ngã các pháp gọi là Phật tánh, chân tâm để sống với cái tâm “không động, không sầu” , “đói ăn mệt ngủ” là không tạo nghiệp, nhờ đó mà giải thoát khỏi mọi khổ và gọi là Kiến Tánh. Tên gọi thì khác nhưng bản chất là một.
Thế nên mới có câu nói: ”Nhờ một vị sư Nam Tông giải thích Bát Nhã Tâm Kinh hay sư Bắc Tông giải thích Tứ Niệm Xứ không khác gì nhờ người thợ mộc đi xây nhà, nhờ người thợ nề đi đóng bàn ghế.
viết bởi Thấy và Biết.Thương hiệu vàng, thương hiệu vàng sản phẩm dịch vụ, thương hiệu vàng công nghiệp việt nam, thương hiệu vàng nông nghiệp việt nam, thương hiệu vàng thuỷ sản việt nam, thương hiệu vàng ngành y tế việt nam, thương hiệu vàng bạc đá quý việt nam, thương hiệu vàng quốc gia việt nam, thương hiệu vàng quốc tế, thương hiệu vàng hội nhập kinh tế quốc tế, thương hiệu vàng asean, thương hiệu vàng đông nam á, thương hiệu nhãn hiệu vàng việt nam, trang vàng thương hiệu việt nam, thương hiệu sao vàng đất việt, thương hiệu vàng du lịch việt nam, thương hiệu vàng sáng tạo việt nam, thương hiệu vàng xây dựng việt nam thương hiệu vàng nội thất việt nam, thương hiệu vàng châu á, thương hiệu vàng du lịch dịch vụ việt nam